Qúa trình thực hiện tội phạm trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn phạm tội chưa đạt và giai đoạn phạm tội đã hoàn thành. Vậy bản chất, các quy định của pháp luật về giai đoạn phạm tội là như thế nào.
Luật tư vấn xin cung cấp tới quý khách hàng các vấn đề pháp lý liên quan đến giai đoạn phạm tội chưa đạt
Cơ sở pháp lý
- Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
- Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP
Phạm tội chưa đạt được quy định như thế nào
Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật hình sự 2015
" Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”
Như vậy, phạm tội chưa đạt chỉ đặt ra với các trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, và phải thỏa mãn hai yếu tố sau:
Thời điểm: Người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi liền trước hành vi khách quan nhưng hành vi của người phạm tội dừng lại khi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
Nguyên nhân dừng lại: Hành vi phạm tội phải dừng lại là do nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội, người phạm tội vẫn muốn phạm tội đến cùng.
Người phạm tội được hiểu như thế nào
Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm. , Người phạm tội có thể là người phạm tội riêng lẻ hoặc là người phạm tội trong đồng phạm. Người phạm tội riêng lẻ là người thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm không cùng chung ý chí với người khác.
Đặc điểm của phạm tội chưa đạt
- Về thời điểm: Thời điểm bắt đầu của giai đoạn phạm tội chưa đạt: Là thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan (ví dụ như hành vi nhặt dao để đâm nạn nhân).
- Thời điểm kết thúc của phạm tội chưa đạt: Là thời điểm hành vi phạm tội phải dừng lại khi nó chưa thoả mãn hết các dấu hiệu trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Bao gồm một trong các trường hợp sau: người phạm tội đã thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan; người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi khách quan đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức mà có nhiều hành vi khách quan. Ví dụ tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản can phạm mới thực hiện được hành vi bắt cóc con tin; người phạm tội đã thực hiện hết hành vi khách quan nhưng hậu quả chưa xảy ra đối với cấu thành tội phạm vật chất. Ví dụ tội trộm cắp tài sản nhưng chưa lấy được tài sản.
- Về tâm lý: Việc người phạm tội phải dừng lại ở những thời điểm trên là do các nguyên nhân khách quan, các nguyên nhân đó có thể là do: Nạn nhân tránh được, hoặc bị người khác ngăn chặn, hoặc không có đối tượng tác động, hoặc công cụ, phương tiện vô hiệu như đạn không nổ, thuốc độc không còn giá trị sử dụng.
Căn cứ pháp lý để xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội chưa đạt
- Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự 2015 quy định “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.
- Mặt khác tại Khoản 3, Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 quy định "Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định".
lưu ý: Có sự khác nhau giữa trường hợp phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Theo đó, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp người phạm tội đã tự kiềm chế bản thân, không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà người đó bắt đầu, mặc dù họ biết có khả năng thực hiện tội phạm đó đến cùng và không có gì ngăn cản họ. Đây là trường hợp phân biệt rõ ràng giữa tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt (do những trở ngại ngoài ý muốn làm cho người phạm tội không thực hiện được hành vi phạm tội như mong muốn).
Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt
- Căn cứ vào thái độ tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt có 2 loại phạm tội chưa đạt như sau:
+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: Là trường hợp phạm tội chưa đạt trong đó vì những nguyên nhân khách quan mà người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả. Chẳng hạn: trộm cắp tài sản nhưng khi mở được cửa vào nhà chưa kịp lấy tài sản thì bị phát hiện và bắt giữ.
+ Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Là trường hợp phạm tội chưa đạt mà người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân khách quan mà hậu quả không xảy ra. Ví dụ: mở được cửa vào trong nhà lấy tài sản nhưng tài sản không còn ở đó nữa.
Phân biệt giai đoạn chuẩn bị phạm tội với giai đoạn phạm tội chưa đạt
Phương diện |
Chuẩn bị phạm tội |
Phạm tội chưa đạt |
|
Khái niệm |
là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, Trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 (Tội khủng bố) của Bộ luật hình sự 2015 |
Là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. |
|
Hành vi |
Chủ thể chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm (có nghĩa là hành vi chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ), mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhanh chóng về sau. |
Chủ thế đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại, hậu quả đã gây ra cho xã hội, Hành vi trở nên nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn. |
|
Hậu quả pháp lý |
Người thực hiện hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại không phải chịu trách nhiệm hình sự Trừ: Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc), 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), 110 ( Tội gián điệp), 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ), 112 (Tội bạo loạn ), 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân), 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 115 (Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội), 116 ( Tội phá hoại chính sách đoàn kết), 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 118 (Tội phá rối an ninh), 119 (Tội chống phá cơ sở giam giữ), 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 123 (Tội giết người), 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ), 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 207 (Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả), 299 (Tội khủng bố), 300 (Tội tài trợ khủng bố), 301 (Tội bắt cóc con tin), 302 ( Tội cướp biển), 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) và 324 (Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự) của Bộ luật Hình sự thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.”. |
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. |
|
Công việc của chúng tôi
- Tư vấn và hỗ trợ khách hàng các vấn đề pháp lý liên quan đến luật hình sự
- Đại diện ủy quyền quý khách hàng tham gia bảo vệ tại phiên Tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Liên hệ với chúng tôi
Hotline: 098.9869.523
Email: Lienheluattuvan@gmail.com